THẦN TÍCH - THẦN SẮC
Đền cả Để Xuyên- Tổng Đại Công- Huyện Tiên Lãng- Tỉnh Kiến An
(Nay là làng Để Xuyên, xã Đại Thắng, huyện Liên Lãng, TP Hải Phòng)
Đền cả Để Xuyên- Tổng Đại Công- Huyện Tiên Lãng- Tỉnh Kiến An
(Nay là làng Để Xuyên, xã Đại Thắng, huyện Liên Lãng, TP Hải Phòng)
Đền cả Để Xuyên, xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng là một ngôi đền linh thiêng, thờ 1 vị vua đời Lê, 2 vị Tướng và 2 vị Thủy thần từ thời Hùng Vương. Trải qua các thời đại lịch sử, ngôi đền đã được trùng tu lại vào năm 2013, tiếp nối sự linh ứng mỗi lần quốc đảo dân cầu, phù trợ mưa nắng thuận hòa, mùa màng tốt tươi, quốc thái dân an, thái bình thịnh trị.
Hiện nay Viện Thông tin Khoa học Xã hội ở Hà Nội còn lưu giữ được 1 bản kê khai thần tích chép bằng chữ Hán và mỹ tự các triều vua ban tặng cho các vị thần ở 19 đạo sắc phong cũng viết bằng chữ Hán của làng Để Xuyên, tổng Đại Công, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An do lý trưởng của làng này kê khai vào năm 1938 mang ký hiệu TT-TS FQ4*18/X-62 (có bản chụp Photocopy kèm theo).
Theo yêu cầu của địa phương, chúng tôi xin sao chụp nguồn tài liệu nói trên, đồng thời phiên âm, dịch nghĩa ra chữ Quốc ngữ bản thần tích và mỹ tự ở 19 đạo sắc phong trải các triều vua phong tặng cho các vị thần thành hoàng làng.
Ngoài bản khai Thần tích- Thần sắc lưu giữ ở Viện thông tin KHXH ra, trong sách Đồng Khánh địa dư ký hiệu A537/7 trang 59a hiện đang lưu giữ tại Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng có ghi về ngôi đền thờ Trang Định Vương ở xã Để Xuyên, huyện Tiên Minh, tỉnh Hải Dương cũ. Chúng tôi có photocopy và dịch nghĩa phần tư liệu này kèm theo đây.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2008
Người dịch
Nguyễn Thị Trang
Xác nhận của Viện nghiên cứu Hán Nôm
Xác nhận bà Nguyễn Thị Trang nguyên là cán bộ của Viện.
***
THẦN TÍCH
LÀNG ĐỂ XUYÊN TỔNG ĐẠI CÔNG
HUYỆN TIÊN LÃNG- TỈNH KIẾN ÁN
Ký hiệu FQ4 18/X,61.
Dịch nghĩa:
Phả ghi về một vị Đại vương, âm phù hai vị Đại vương, công thần hai vị Đại vương triều hậu Lê Cung Tông.
(Chi cấn bộ Thượng đẳng, bản chính ở bộ Lễ quốc triều)
Xưa kia Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ mở vận xây dựng cơ đồ hơn hai nghìn năm. Hùng Vương dựng nước, non sông vạn dặm, xây móng nền Hùng đô cung điện, một dải nước biêc xây nền đạo thánh đế minh Vương để độ vật cứu nhân, thống nhất mười lăm bộ, lấy hiệu là Bách Việt và trở thành Triệu Tổ. Đến cuối đời vua Hùng đã có trăm vị thần sơn thủy thường hay xuất thế biến hóa thần cơ, âm phù giúp nước, che chở muôn dân. Nên có thơ rằng:
Mở nền Nam Việt có Kinh Dương
Một dải sơn hà mười tám vương
Mười tám đời truyền nghìn năm vững
Ngàn năm con cháu vẫn dâng hương
Lại nói: Bấy giờ vào cuối đời vua Hùng Vương thứ 18, ý trời muốn bảo cho biết họ Hùng đã hết vận. Tiếp theo các triều ngự trị ở Trung Nguyên là Tây Hán, Đông Hán, Ngô, Tần, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy thay thế nhau cai quản. Ở nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần kế nối nhau khai sáng cơ đồ, cai quản đất nước. Sau đó đến vua Lê Cung Tông là con trưởng của vua Chiêu Tông. Các đời vua Lê kế nhau cai trị đất nước, bên trong thì mở mang văn đức, bên ngoài thì phòng bị biên cương, xây dựng đất nước thanh bình yên ấm. Khi ấy có người ở huyện Nghi Dương tên là Mạc Đăng Dung, làm quan đại thần trong triều, sớm có ý thức cướp ngôi vua. Ngày ấy vua lập hành cung ở đạo Hải Dương (tên cũ là Hồng Châu, tục là Dinh Dậu) thuộc địa phận huyện Gia Phúc (tên cũ là Trường Tân). Ở đó chừng vài tháng, bà phu nhân là Trần Thị Ngoan nằm mơ thấy nuốt viên ngọc trắng rồi mang thai. Đến ngày mồng 10 năm Nhâm Thân thì sinh ra viên thái tử khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khôi kỳ. Nhà vua vô cùng yêu quý con, hết lòng chăm lo nuôi dưỡng. Thế rồi một hôm nhà vua đưa phu nhân cùng thái tử về ở trong nội cung thành Thăng Long và đặt tên cho con là Trang Định, tên húy là Duy Ninh.
Khi ấy vua Cung Tông tại vị vừa được 5 năm thì không ngờ Mạc Đăng Dung cùng bọn đại thần gian mưu cướp ngôi hoàng đế. Vua Cung Tông bị chế ngự trong tay Mạc Đăng Dung. Khi ấy triều đình không biết tin gì, còn thái tử thì mê muội, nhút nhát. Vừa lúc đó may có Triệu tổ Tịnh công làm Điện tiền tướng quân đem Thái tử đến Ai Lao và ở đó. Từ đó Đăng Dung giành ngôi, uy quyền ngày càng mạnh. Trung thần nghĩa sỹ lộng hành chém giết, mọi quyền uy quốc sự trong tay nhà Mạc. Trong khi đó Triệu Tổ cùng thái tử Duy Ninh dưỡng uy súc nhuệ, luyện binh tập mã, rèn chí khi khôi phục hồng đồ, gây dựng lại đại nghiệp. Khi ấy Trang Định Công đã trưởng thành, nên đã cùng với Triệu tổ Tịnh chiêu mộ hùng binh được hơn hai vạn người. Hai ông chia quân trở về quê cũ và tổ chức hoạt động khắp bốn phương, đi khắp thiên hạ để chiêu dụ hiền tài chống lại bọn loạn thần nhà Mạc.
Khi ấy Trang Định Công cùng với Tỳ tướng Đặng Xa Lâu và Tướng quân Trịnh Đống Thung, ba ông dẫn quân về địa đầu huyện Tiên Lãng (tên cũ cùng gọi là Bình Hà, đến hậu Lê đổi là Tân Minh) phủ Nam Sách, đạo Hải Dương (tên cũ là Hồng Châu, tục gọi là Dinh Dậu) thì mặt trời đã khuất núi, ba ông cho trú quân ở miếu trang Để Xuyên. Sáng sớm hôm sau, thấy trang khu nơi đây có địa thế sông núi uốn quanh, rồng chầu hổ phục, núi cao mà nước lại không sâu, phong cảnh hữu tình, sông núi tiện nghi như một nơi thắng cảnh phong quang vậy. Ngay ngày hôm ấy, ba ông liền truyền cho binh sỹ và nhân dân xây một đồng giả để ứng phó ở phía sau quân nhà Mạc. Khi ấy phụ lão nhân dân trang khu Để Xuyên thấy vậy đều rất lo sợ liền làm lễ xin được làm gia thần tử đệ. Các ông đồng ý và chọn được 10 người thật cường tráng ở bản trang làm gia thần nội thủ. Hôm ấy, ba ông truyền lệnh cho binh sỹ giết mổ trâu lợn cáo tế thiên địa sơn thủy bách thần, khao thưởng các vị phụ lão cùng nhân dân trong trang khu. Các vị phụ lão , nhân dân cùng các gia thần thụ hưởng yến ẩm rồi có lời tâu với ba ông rằng: Từ khi ba ông xây đồn sở ở đây, lấy uy đức để thu phục lòng dân thì dân đều yên ổn làm ăn, vậy nhân đây xin nay được làm đồn sở và sau này nơi đây sẽ là nơi thờ tự; các ông đều đồng ý.
Đến đêm, khi Trang Công nằm ngủ trong đồn. Vừa đến cuối canh ba đang mơ màng tựa mộng, bỗng thấy hai ông già mũ áo chỉnh tề, hình dung cao lớn, từ đường miếu đi ra, tự nói rằng: Anh em ta vốn là con cháu của Hùng Gia, vâng mệnh thiên đình làm quan thủy thần tạm cai trị nơi đầu sông góc biển, mới có trang khu lập miếu để thờ phụng làm Thành hoàng ở trong miếu sở. Tên tự tên hiệu người thứ nhất là Nam Hải Linh ứng Đại vương, người thứ hai là Phổ Tế Linh ứng Đại vương. Lại bảo nhau rằng non sông cùng một dải, âm dương hiệp đức. Nay thấy nhà vua đem quân đi đánh nhà Mạc mà đến đây xây đồn trú quân, cầu đảo bách thần nên anh em tôi đã xuất hiện để âm phù theo đoàn quân đi dẹp loạn nhà Mạc. Sau này hiển vị, phàm các lễ tế tự cho anh em tôi cùng được phối hưởng. Hai ông già nói xong thì tự biến mất (Hôm đó là ngày mồng 2 tháng 10, hai ông cùng hiện). Trong chốc lát tỉnh dậy, biết đây là thần linh xuất hiện trợ giúp cho ông. Sáng sớm hôm sau, ba ông nói với các vị phụ lão, gia thần rằng Trang khu các người có tấm lòng nồng hậu đối với ta và hai vị tỳ tướng, nên ta di mệnh cho trang khu các người ức niên sau này được thờ phụng cùng với hai vị thần trước. Phàm các ngày tế tự đều cùng ta đồng phối và tặng cho các vị phụ lão gia thần 5 nén vàng, mua lấy khu đất tốt, sau này chọn đem bán đứt đi lấy tiền lo việc tiệc lệ.
Khi đó Lê Trang Công cùng hai vị tướng chiêu dụ được hàng trăm vị quan, ngoài việc trù tính quân lữ. Từ Nghệ An xuất quân đến Tây Đô tiến thủ nghĩa binh trấn động, các bậc hào kiệt ảnh hưởng muốn theo chính thống. Thế là Mạc Đăng Dung tiếm vị đã ba năm lại truyền ngôi cho Đăng Doanh. Hôm ấy sứ giả phụng mệnh nhà vua đem thư đến nói rằng Trang Định Công khởi binh từ Ai Lao dẫn quân về khôi phục cơ đồ, đại định thiên hạ. Nhà Mạc dẫn quân về đất Lôi Dương và lập đồn điền cố thủ ở đấy. Ngay ngày hôm ấy, Trang Công cùng Triệu Tổ Tịnh Công và hai tỳ tướng hội đồng binh sỹ đại chiến một trận, Quân nhà Mạc thua chạy, chém được vô số tướng sỹ. Từ đó thiên hạ thái bình, quốc gia an thái. Ngay lúc đó liền nghênh rước Trang Định Công lên ngôi hoàng đế (đặt niên hiệu là Nguyên Hòa). Cùng hôm đó, nhà vua truyền cho mở tiệc chúc mừng, gia phong cho các tướng sỹ cấp bậc khác nhau. Thời gian đó, nhà vua tại vị vừa tròn 16 năm.
Vua Tramg Tông cùng hai vị tướng cử binh chia thành các đạo tiến quân để khắc phục Đông Đô. Hôm ấy tướng nhà Mạc là Trung Hậu hầu dâng tiến một quả dưa, nhà vua và hai vị tướng ăn đều bị ngộ độc mà cùng hóa luôn (hôm đó là ngày mồng 6 tháng 11). Lúc đó binh sĩ đều dâng biểu tâu ngay cho triều đình biết. Thái tử cùng các vị thần liền rước về táng tế tại Long Biên. Ngay hôm đó quần thần nghênh lập Thái tử làm Hoàng đế hiệu là Trung Tông (đặt niên hiệu là Thuận Bình). Nhà vua hạ chiếu lệnh cho các đạo châu huyện, nơi nào có các Trang khu xin Thánh phụ thần hiệu thì trở về lập miếu thờ phụng.
Thật tốt đẹp lắm thay !
Lại đến đời Lê Thế Tông đã dẹp được nhà Mạc nên gia phong mỹ tự bách thần, sắc phong tổ khảo cùng công thần nguyên chữ thần hiệu.
- Tiến phong Đương cảnh Thành hoàng Trang Định Công trung quốc Hiển ứng Đại vương Thượng đẳng thần
- Phong Đương cảnh Thành hoàng Xa Lâu Hiển ứng Đại vương Trung đẳng thần
- Phong Đương cảnh Thành hoàng Đống Thung Hiển ứng Đại vương Trung đẳng thần
- Phong Bản cảnh Thành hoàng Nam Hải Linh Hiển ứng Đại vương Thượng đẳng thần
- Phong Bản cảnh Thành hoàng Phổ Tế Linh ứng Đại vương Thượng đẳng thần.
Sắc chỉ ban cho trang Để Xuyên được thờ phụng.
***
Kính thay !
Lại nói! Từ đó trở về sau đều rất linh ứng, cho nên trải nhiều đời vua đều được gia phong mỹ tự, quốc đảo dân cầu. Chuẩn cho trang Để Xuyên 300 quan tiền giao cho nơi sở tại để lo việc tế tự xuân thu và việc quốc tế. Kính thay !
(Sắc phục màu vàng, màu tím khi làm lễ đều cấm)
Tuy đến đời hậu Lê Thần Tông, khi tra xét công việc của bách thần thì thấy 5 vị thần đây thật là linh ứng nên đã phong thêm cho ba vị Cạnh khí Dũng mãnh Cương nghị Hiển ứng Đương vũ Tuyên tiệp Dực vận Hộ quốc Tuy dân Thịnh đức Đại vương; Phong thêm cho 2 vị thủy thần Linh quang Hộ quốc Tế thế Hùng uy Đại vương, sắc chỉ gia ban Thượng đẳng Phúc thần. Cho phép trang Để Xuyên sửa lại miếu điện để thờ phụng các ngài. Còn mãi mãi cùng đất nước.
Kính thay !
Xin kê khai các tiệc lễ ngày sinh ngày hóa cùng tên húy tên tự phải cấm là Trang, Định, Lâu, Thung, Hải, Phổ. Cho phép được thờ phụng như cũ.
- Thần sinh ngày mồng 10 tháng Giêng. Lệ chính lễ dùng trên cỗ chay phẩm quả, dưới lợn đen, xôi rượu, ca hát trong ba ngày.
- Thần hóa ngày mồng 6 tháng 11. Lệ chính lễ dùng như trên, bánh dày, bánh chưng.
- Thần hiện ngày mồng 2 tháng 10. Lệ chính lễ dùng trên dưới tùy nghi. Ca hát ba ngày.
Ngày tốt tháng Giêng năm Thịnh Đức nguyên niên.
Đệ Tam giáp Tiến sỹ xuất thân đã nghỉ hưu, Thượng thư bộ Lại, Tả thị lang được tặng tước Hầu là Nguyễn Đình Chính vâng soạn chính thể.
Ngày tốt tháng 11 năm Vĩnh Hựu 3.
Nội các bộ Lại lại tuân theo bản chính cũ viết lại.
***
SẮC PHONG
Trải qua các triều vua, Đền cả Để Xuyên được phong tổng cộng 19 sắc phong.
Được phong mỹ tự Đốc khánh Khải tường Diệu ứng Hoằng hưu Phong công vĩ tích tuấn lương Lượng trực Đoan Túc Đại vương. Lại phong tặng thêm Dực bảo Trung Hưng Trác vĩ Lĩnh phù Thượng đẳng Tôn thần vào các năm:
- Năm Thiệu Trị 6 (1846) phong 2 đạo
- Năm Tự Đức 3 (1850) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Được phong tặng mỹ tự Ngụy tuấn Hoàng thông Tĩnh an Quảng lợi Uông nhuận Dực bảo Trung hưng Linh phù. Lại phong tặng thêm Hoàng hiệp Trung đẳng Tôn thần vào các năm:
- Năm Tự Đức 6 (1853) phong 1 đạo
- Năm Duy Tân 3 (1909) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) hợp phong 5 đạo
- Năm Tự Đức 3 (1880) phong 1 đạo
Lại phong Dực bảo Trung hưng Linh phù Đôn ngưng Tôn thần vào các năm:
- Năm Thành Thái nguyên niên (1889) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Lại phong Dực bảo Trung hưng Linh phù Đôn ngưng Tôn thần vào các năm:
- Năm Đồng Khánh 2 (1887) phong 1 đạo
- Năm Thành Thái nguyên niên (1889) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Trải các triều vua được phong tặng Bác trách Hoằng thí Phổ độ Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng Tĩnh hậu Linh phù Tôn thần vào các năm:
- Năm Tự Đức 6 (1853) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Hiện nay Viện Thông tin Khoa học Xã hội ở Hà Nội còn lưu giữ được 1 bản kê khai thần tích chép bằng chữ Hán và mỹ tự các triều vua ban tặng cho các vị thần ở 19 đạo sắc phong cũng viết bằng chữ Hán của làng Để Xuyên, tổng Đại Công, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An do lý trưởng của làng này kê khai vào năm 1938 mang ký hiệu TT-TS FQ4*18/X-62 (có bản chụp Photocopy kèm theo).
Theo yêu cầu của địa phương, chúng tôi xin sao chụp nguồn tài liệu nói trên, đồng thời phiên âm, dịch nghĩa ra chữ Quốc ngữ bản thần tích và mỹ tự ở 19 đạo sắc phong trải các triều vua phong tặng cho các vị thần thành hoàng làng.
Ngoài bản khai Thần tích- Thần sắc lưu giữ ở Viện thông tin KHXH ra, trong sách Đồng Khánh địa dư ký hiệu A537/7 trang 59a hiện đang lưu giữ tại Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng có ghi về ngôi đền thờ Trang Định Vương ở xã Để Xuyên, huyện Tiên Minh, tỉnh Hải Dương cũ. Chúng tôi có photocopy và dịch nghĩa phần tư liệu này kèm theo đây.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2008
Người dịch
Nguyễn Thị Trang
Xác nhận của Viện nghiên cứu Hán Nôm
Xác nhận bà Nguyễn Thị Trang nguyên là cán bộ của Viện.
***
THẦN TÍCH
LÀNG ĐỂ XUYÊN TỔNG ĐẠI CÔNG
HUYỆN TIÊN LÃNG- TỈNH KIẾN ÁN
Ký hiệu FQ4 18/X,61.
Dịch nghĩa:
Phả ghi về một vị Đại vương, âm phù hai vị Đại vương, công thần hai vị Đại vương triều hậu Lê Cung Tông.
(Chi cấn bộ Thượng đẳng, bản chính ở bộ Lễ quốc triều)
Xưa kia Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ mở vận xây dựng cơ đồ hơn hai nghìn năm. Hùng Vương dựng nước, non sông vạn dặm, xây móng nền Hùng đô cung điện, một dải nước biêc xây nền đạo thánh đế minh Vương để độ vật cứu nhân, thống nhất mười lăm bộ, lấy hiệu là Bách Việt và trở thành Triệu Tổ. Đến cuối đời vua Hùng đã có trăm vị thần sơn thủy thường hay xuất thế biến hóa thần cơ, âm phù giúp nước, che chở muôn dân. Nên có thơ rằng:
Mở nền Nam Việt có Kinh Dương
Một dải sơn hà mười tám vương
Mười tám đời truyền nghìn năm vững
Ngàn năm con cháu vẫn dâng hương
Lại nói: Bấy giờ vào cuối đời vua Hùng Vương thứ 18, ý trời muốn bảo cho biết họ Hùng đã hết vận. Tiếp theo các triều ngự trị ở Trung Nguyên là Tây Hán, Đông Hán, Ngô, Tần, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy thay thế nhau cai quản. Ở nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần kế nối nhau khai sáng cơ đồ, cai quản đất nước. Sau đó đến vua Lê Cung Tông là con trưởng của vua Chiêu Tông. Các đời vua Lê kế nhau cai trị đất nước, bên trong thì mở mang văn đức, bên ngoài thì phòng bị biên cương, xây dựng đất nước thanh bình yên ấm. Khi ấy có người ở huyện Nghi Dương tên là Mạc Đăng Dung, làm quan đại thần trong triều, sớm có ý thức cướp ngôi vua. Ngày ấy vua lập hành cung ở đạo Hải Dương (tên cũ là Hồng Châu, tục là Dinh Dậu) thuộc địa phận huyện Gia Phúc (tên cũ là Trường Tân). Ở đó chừng vài tháng, bà phu nhân là Trần Thị Ngoan nằm mơ thấy nuốt viên ngọc trắng rồi mang thai. Đến ngày mồng 10 năm Nhâm Thân thì sinh ra viên thái tử khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khôi kỳ. Nhà vua vô cùng yêu quý con, hết lòng chăm lo nuôi dưỡng. Thế rồi một hôm nhà vua đưa phu nhân cùng thái tử về ở trong nội cung thành Thăng Long và đặt tên cho con là Trang Định, tên húy là Duy Ninh.
Khi ấy vua Cung Tông tại vị vừa được 5 năm thì không ngờ Mạc Đăng Dung cùng bọn đại thần gian mưu cướp ngôi hoàng đế. Vua Cung Tông bị chế ngự trong tay Mạc Đăng Dung. Khi ấy triều đình không biết tin gì, còn thái tử thì mê muội, nhút nhát. Vừa lúc đó may có Triệu tổ Tịnh công làm Điện tiền tướng quân đem Thái tử đến Ai Lao và ở đó. Từ đó Đăng Dung giành ngôi, uy quyền ngày càng mạnh. Trung thần nghĩa sỹ lộng hành chém giết, mọi quyền uy quốc sự trong tay nhà Mạc. Trong khi đó Triệu Tổ cùng thái tử Duy Ninh dưỡng uy súc nhuệ, luyện binh tập mã, rèn chí khi khôi phục hồng đồ, gây dựng lại đại nghiệp. Khi ấy Trang Định Công đã trưởng thành, nên đã cùng với Triệu tổ Tịnh chiêu mộ hùng binh được hơn hai vạn người. Hai ông chia quân trở về quê cũ và tổ chức hoạt động khắp bốn phương, đi khắp thiên hạ để chiêu dụ hiền tài chống lại bọn loạn thần nhà Mạc.
Khi ấy Trang Định Công cùng với Tỳ tướng Đặng Xa Lâu và Tướng quân Trịnh Đống Thung, ba ông dẫn quân về địa đầu huyện Tiên Lãng (tên cũ cùng gọi là Bình Hà, đến hậu Lê đổi là Tân Minh) phủ Nam Sách, đạo Hải Dương (tên cũ là Hồng Châu, tục gọi là Dinh Dậu) thì mặt trời đã khuất núi, ba ông cho trú quân ở miếu trang Để Xuyên. Sáng sớm hôm sau, thấy trang khu nơi đây có địa thế sông núi uốn quanh, rồng chầu hổ phục, núi cao mà nước lại không sâu, phong cảnh hữu tình, sông núi tiện nghi như một nơi thắng cảnh phong quang vậy. Ngay ngày hôm ấy, ba ông liền truyền cho binh sỹ và nhân dân xây một đồng giả để ứng phó ở phía sau quân nhà Mạc. Khi ấy phụ lão nhân dân trang khu Để Xuyên thấy vậy đều rất lo sợ liền làm lễ xin được làm gia thần tử đệ. Các ông đồng ý và chọn được 10 người thật cường tráng ở bản trang làm gia thần nội thủ. Hôm ấy, ba ông truyền lệnh cho binh sỹ giết mổ trâu lợn cáo tế thiên địa sơn thủy bách thần, khao thưởng các vị phụ lão cùng nhân dân trong trang khu. Các vị phụ lão , nhân dân cùng các gia thần thụ hưởng yến ẩm rồi có lời tâu với ba ông rằng: Từ khi ba ông xây đồn sở ở đây, lấy uy đức để thu phục lòng dân thì dân đều yên ổn làm ăn, vậy nhân đây xin nay được làm đồn sở và sau này nơi đây sẽ là nơi thờ tự; các ông đều đồng ý.
Đến đêm, khi Trang Công nằm ngủ trong đồn. Vừa đến cuối canh ba đang mơ màng tựa mộng, bỗng thấy hai ông già mũ áo chỉnh tề, hình dung cao lớn, từ đường miếu đi ra, tự nói rằng: Anh em ta vốn là con cháu của Hùng Gia, vâng mệnh thiên đình làm quan thủy thần tạm cai trị nơi đầu sông góc biển, mới có trang khu lập miếu để thờ phụng làm Thành hoàng ở trong miếu sở. Tên tự tên hiệu người thứ nhất là Nam Hải Linh ứng Đại vương, người thứ hai là Phổ Tế Linh ứng Đại vương. Lại bảo nhau rằng non sông cùng một dải, âm dương hiệp đức. Nay thấy nhà vua đem quân đi đánh nhà Mạc mà đến đây xây đồn trú quân, cầu đảo bách thần nên anh em tôi đã xuất hiện để âm phù theo đoàn quân đi dẹp loạn nhà Mạc. Sau này hiển vị, phàm các lễ tế tự cho anh em tôi cùng được phối hưởng. Hai ông già nói xong thì tự biến mất (Hôm đó là ngày mồng 2 tháng 10, hai ông cùng hiện). Trong chốc lát tỉnh dậy, biết đây là thần linh xuất hiện trợ giúp cho ông. Sáng sớm hôm sau, ba ông nói với các vị phụ lão, gia thần rằng Trang khu các người có tấm lòng nồng hậu đối với ta và hai vị tỳ tướng, nên ta di mệnh cho trang khu các người ức niên sau này được thờ phụng cùng với hai vị thần trước. Phàm các ngày tế tự đều cùng ta đồng phối và tặng cho các vị phụ lão gia thần 5 nén vàng, mua lấy khu đất tốt, sau này chọn đem bán đứt đi lấy tiền lo việc tiệc lệ.
Khi đó Lê Trang Công cùng hai vị tướng chiêu dụ được hàng trăm vị quan, ngoài việc trù tính quân lữ. Từ Nghệ An xuất quân đến Tây Đô tiến thủ nghĩa binh trấn động, các bậc hào kiệt ảnh hưởng muốn theo chính thống. Thế là Mạc Đăng Dung tiếm vị đã ba năm lại truyền ngôi cho Đăng Doanh. Hôm ấy sứ giả phụng mệnh nhà vua đem thư đến nói rằng Trang Định Công khởi binh từ Ai Lao dẫn quân về khôi phục cơ đồ, đại định thiên hạ. Nhà Mạc dẫn quân về đất Lôi Dương và lập đồn điền cố thủ ở đấy. Ngay ngày hôm ấy, Trang Công cùng Triệu Tổ Tịnh Công và hai tỳ tướng hội đồng binh sỹ đại chiến một trận, Quân nhà Mạc thua chạy, chém được vô số tướng sỹ. Từ đó thiên hạ thái bình, quốc gia an thái. Ngay lúc đó liền nghênh rước Trang Định Công lên ngôi hoàng đế (đặt niên hiệu là Nguyên Hòa). Cùng hôm đó, nhà vua truyền cho mở tiệc chúc mừng, gia phong cho các tướng sỹ cấp bậc khác nhau. Thời gian đó, nhà vua tại vị vừa tròn 16 năm.
Vua Tramg Tông cùng hai vị tướng cử binh chia thành các đạo tiến quân để khắc phục Đông Đô. Hôm ấy tướng nhà Mạc là Trung Hậu hầu dâng tiến một quả dưa, nhà vua và hai vị tướng ăn đều bị ngộ độc mà cùng hóa luôn (hôm đó là ngày mồng 6 tháng 11). Lúc đó binh sĩ đều dâng biểu tâu ngay cho triều đình biết. Thái tử cùng các vị thần liền rước về táng tế tại Long Biên. Ngay hôm đó quần thần nghênh lập Thái tử làm Hoàng đế hiệu là Trung Tông (đặt niên hiệu là Thuận Bình). Nhà vua hạ chiếu lệnh cho các đạo châu huyện, nơi nào có các Trang khu xin Thánh phụ thần hiệu thì trở về lập miếu thờ phụng.
Thật tốt đẹp lắm thay !
Lại đến đời Lê Thế Tông đã dẹp được nhà Mạc nên gia phong mỹ tự bách thần, sắc phong tổ khảo cùng công thần nguyên chữ thần hiệu.
- Tiến phong Đương cảnh Thành hoàng Trang Định Công trung quốc Hiển ứng Đại vương Thượng đẳng thần
- Phong Đương cảnh Thành hoàng Xa Lâu Hiển ứng Đại vương Trung đẳng thần
- Phong Đương cảnh Thành hoàng Đống Thung Hiển ứng Đại vương Trung đẳng thần
- Phong Bản cảnh Thành hoàng Nam Hải Linh Hiển ứng Đại vương Thượng đẳng thần
- Phong Bản cảnh Thành hoàng Phổ Tế Linh ứng Đại vương Thượng đẳng thần.
Sắc chỉ ban cho trang Để Xuyên được thờ phụng.
***
Kính thay !
Lại nói! Từ đó trở về sau đều rất linh ứng, cho nên trải nhiều đời vua đều được gia phong mỹ tự, quốc đảo dân cầu. Chuẩn cho trang Để Xuyên 300 quan tiền giao cho nơi sở tại để lo việc tế tự xuân thu và việc quốc tế. Kính thay !
(Sắc phục màu vàng, màu tím khi làm lễ đều cấm)
Tuy đến đời hậu Lê Thần Tông, khi tra xét công việc của bách thần thì thấy 5 vị thần đây thật là linh ứng nên đã phong thêm cho ba vị Cạnh khí Dũng mãnh Cương nghị Hiển ứng Đương vũ Tuyên tiệp Dực vận Hộ quốc Tuy dân Thịnh đức Đại vương; Phong thêm cho 2 vị thủy thần Linh quang Hộ quốc Tế thế Hùng uy Đại vương, sắc chỉ gia ban Thượng đẳng Phúc thần. Cho phép trang Để Xuyên sửa lại miếu điện để thờ phụng các ngài. Còn mãi mãi cùng đất nước.
Kính thay !
Xin kê khai các tiệc lễ ngày sinh ngày hóa cùng tên húy tên tự phải cấm là Trang, Định, Lâu, Thung, Hải, Phổ. Cho phép được thờ phụng như cũ.
- Thần sinh ngày mồng 10 tháng Giêng. Lệ chính lễ dùng trên cỗ chay phẩm quả, dưới lợn đen, xôi rượu, ca hát trong ba ngày.
- Thần hóa ngày mồng 6 tháng 11. Lệ chính lễ dùng như trên, bánh dày, bánh chưng.
- Thần hiện ngày mồng 2 tháng 10. Lệ chính lễ dùng trên dưới tùy nghi. Ca hát ba ngày.
Ngày tốt tháng Giêng năm Thịnh Đức nguyên niên.
Đệ Tam giáp Tiến sỹ xuất thân đã nghỉ hưu, Thượng thư bộ Lại, Tả thị lang được tặng tước Hầu là Nguyễn Đình Chính vâng soạn chính thể.
Ngày tốt tháng 11 năm Vĩnh Hựu 3.
Nội các bộ Lại lại tuân theo bản chính cũ viết lại.
***
SẮC PHONG
Trải qua các triều vua, Đền cả Để Xuyên được phong tổng cộng 19 sắc phong.
Được phong mỹ tự Đốc khánh Khải tường Diệu ứng Hoằng hưu Phong công vĩ tích tuấn lương Lượng trực Đoan Túc Đại vương. Lại phong tặng thêm Dực bảo Trung Hưng Trác vĩ Lĩnh phù Thượng đẳng Tôn thần vào các năm:
- Năm Thiệu Trị 6 (1846) phong 2 đạo
- Năm Tự Đức 3 (1850) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Được phong tặng mỹ tự Ngụy tuấn Hoàng thông Tĩnh an Quảng lợi Uông nhuận Dực bảo Trung hưng Linh phù. Lại phong tặng thêm Hoàng hiệp Trung đẳng Tôn thần vào các năm:
- Năm Tự Đức 6 (1853) phong 1 đạo
- Năm Duy Tân 3 (1909) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) hợp phong 5 đạo
- Năm Tự Đức 3 (1880) phong 1 đạo
Lại phong Dực bảo Trung hưng Linh phù Đôn ngưng Tôn thần vào các năm:
- Năm Thành Thái nguyên niên (1889) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Lại phong Dực bảo Trung hưng Linh phù Đôn ngưng Tôn thần vào các năm:
- Năm Đồng Khánh 2 (1887) phong 1 đạo
- Năm Thành Thái nguyên niên (1889) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo
Trải các triều vua được phong tặng Bác trách Hoằng thí Phổ độ Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng Tĩnh hậu Linh phù Tôn thần vào các năm:
- Năm Tự Đức 6 (1853) phong 1 đạo
- Năm Khải Định 9 (1924) phong 1 đạo


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét